Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
luan_van_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_moi_quan_he_giua_phap_luat.pdf
Nội dung tài liệu: Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VƯƠNG THANH HUYỀN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, xã hội Việt Nam đang có những bước chuyển lớn. Sự giao thoa của nhiều nền văn hoá trong thời kỳ hội nhập đã làm cho nền tảng đạo đức truyền thống bị lung lay và có nguy có bị lãng quên trước “cơn lốc” thị trường. Bên cạnh đó, nhu cầu làm giàu đã khiến không ít người vượt qua ranh giới của pháp luật nhằm thu lợi bất chính. Tình hình phạm tội luôn là điểm nóng trong những năm vừa qua đặc biệt là bộ phận thanh thiếu niên - thế hệ tương lai của đất nước và trong đội ngũ công chức - những người nắm trong tay quyền lực nhà nước. Thực tế đó đã gióng lên hồi chuông báo động về sự xuống cấp về mặt đạo đức và ý thức pháp luật trong đại bộ phận dân chúng Việt Nam. Bác Hồ đã từng nói: con người là tài nguyên của đất nước. Để xây dựng một nước Việt Nam : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh thì phải có những con người mang trong mình ý thức pháp luật của thời đại và nền tảng đạo đức cách mạng truyền thống của dân tộc”. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Pháp luật và đạo đức là hai hình thái ý thức xã hội tham gia vào việc điều chỉnh hành vi con người và được nhà nước sử dụng trong hoạt động quản lý xã hội. Trước Hồ Chí Minh đã có rất nhiều những nhà tư tưởng đề cập đến vấn đề đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, những quan điểm này thường tuyệt đối hóa một bên đạo đức hoặc một bên pháp luật mà chưa nhận thấy được vai trò của sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế của pháp luật và đạo đức, Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật và đạo đức từ đó Người
- chủ trương phải kết hợp pháp luật và đạo đức trong việc điều chỉnh hành vi con người và quản lý xã hội. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã và đang có nhiều chủ trương nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Trong điều kiện đó, tác giả mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức” nhằm góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận về pháp luật và đạo đức. 2. Tình hình nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội được xây dựng trên cơ sở sự tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê Nin và thành tự khoa học xã hội trên thế giới. Vấn đề pháp luật và đạo đức chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Từ trước đến nay đã có rất nhiều những đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế hiện nay, sự xuống cấp về ý thức đạo đức đã gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng hỗn loạn, phức tạp của xã hội trong tương lai. Điều này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Ngày càng xuất hiện nhiều đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Nhà nước ta cũng đã và đang đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là những nguồn tư liệu quý giá phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. 3. Mục đích của đề tài: - Nghiên cứu những quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức, về pháp luật và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Trên 2
- cơ sở đó chỉ ra được tầm quan trọng của pháp luật và đạo đức cũng như việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. - Chỉ ra thực trạng thực thi pháp luật và sự xuống cấp về mặt đạo đức trong xã hội Việt Nam trong những năm đổi mới. - Đưa ra những giải pháp mới góp phần vận dụng một cách có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữ pháp luật và đạo đức. 4. Nhiệm vụ của đề tài: Trên cơ sở mục đích của đề tài nêu trên, đề tài nghiên cứu cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những sự kiện lịch, những mẩu chuyện về Hồ Chí Minh nhằm chỉ ra tư tưởng của Người về pháp luật, về đạo và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. Thông qua những câu chuyện đó nhằm đưa ra những nhận định và đánh giá của Người về tầm quan trọng của pháp luật và đạo đức trong việc quản lý đất nước và sự cần thiết phải vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong thực tế - Tìm hiểu và đánh giá thực trạng thực thi pháp luật và sự xuống cấp về đạo đức trong từng tầng lớp nhân dân từ đó tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó. - Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị để vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong thự tế 5. Phạm vi nghiên cứu: Với mục đích nhằm nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức về pháp luật cũng như mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. 3
- Nghiên cứu thực trạng đạo đức và thực thi pháp luật ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và hội nhập khu vực, quốc tế. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: - Phương pháp thu thập tài liệu ghi nhận các sự kiện lịch sử liên quan đến hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh. - Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhằm phân tích các sự kiện lịch sử liên quan đến tư tưởng quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật - Tham khảo các tài liệu chuyên khảo về Hồ Chí Minh bổ sung cho việc phân tích và đưa ra nhận định về tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. 7. Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Chương 2: Thực trạng đạo đức và pháp luật ở nước ta hiện Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. nước pháp quyền, bảo vệ, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống. 4
- Chương 1 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC 1.1. KHÁI QUÁT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC. 1.1.1 Vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội: Lịch sử nhà nước và pháp luật đã chững minh rằng, hoạt động quản lý xã hội là một nhu cầu tất yếu, điều này phát sinh từ sự đa dạng và phức tạp của mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội. Sự hỗn loạn, mất phương hướng của các quan hệ xã hội sẽ nhanh chóng khiến xã hội đó đi đến chỗ diệt vong. Trong xã hội có nhà nước, việc điều hòa, ổn định các mối quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định là chức năng chính của nhà nước. Hoạt động điều chỉnh xã hội được thực hiện thông qua hệ thống phương tiện điều chỉnh xã hội – các loại quy phạm xã hội. “Quy phạm xã hội là những hiện tượng không thể thiếu được trong đời sống xã hội, là những phương tiện của quản lý xã hội, phương tiện để điều hòa, phối hợp ý chí và quy tụ các hoạt động của từng cá nhân riêng lẻ lại nhằm đạt được những lợi ích và mục đích chung của xã hội” [18]. Các loại quy phạm xã hội bao gồm: các quy phạm pháp luật; các quy phạm đạo đức; các quy phạm tập quán, phong tục, luật tục; các quy tắc cộng đồng; các quy phạm của các tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo. Tập quán là cách ứng xử hằng ngày của con người được lặp đi lặp lại và trở thành thói quen của cộng đồng hoặc toàn xã hội. Tập quán bao gồm những thói quen về suy nghĩ, thói quen trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động. Tập quán có phạm vi điều chỉnh hẹp và được bảo đảm bằng dư luận xã hội. Những hành vi được coi là trái với tập quán sẽ bị dư luận lên án, đả kích. Chế 5
- tài của tập quán được xem là không “nặng nề lắm” [18] và có sự thể hiện tính dao động “giữa tình trạng bắt buộc với rất đáng làm theo” [18]. Tuy nhiên dư luận của cộng đồng, xã hội được là thứ quyền lực xã hội có tính truyền thống và đôi khi nó còn mạnh mẽ và dai dẳng hơn pháp luật. Phong tục là một loại của tập quán, nhưng được lan rộng và ăn sâu vào đời sống xã hội từ rất lâu đời. So với tập quán, phong tục có tính chất bắt buộc cao hơn, mang tính phổ biến rộng rãi hơn, nó chứa đựng những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, khoa học mang đậm bản sắc dân tộc và màu sắc tâm linh, tôn giáo. Phạm vi điều chỉnh của phong tục rộng hơn tập quán, nó ràng buộc, chi phối hành vi của con người, buộc con người phải có sự lựa chọn cho mình một cách ứng xử cho phù hợp. Luật tục là những tập quán, phong tục tồn tại dưới hình thức không thành văn được truyền miệng từ đời này sang đời khác chứa đựng những quy tắc xử sự điều chỉnh nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Luật tục không bao gồm tất cả những phong tục, tập quán thông thường mà chỉ là những phong tục, tập quán điều chỉnh hành vi của cá nhân trong cộng đồng và mối quan hệ giữa những cộng đồng dân cư với nhau, mang tính bắt buộc chung, được bảo đảm thực hiện bằng những hình thức xử phạt và khen thưởng. Hương ước của cộng đồng làng xã là một hình thức của luật tục bao gồm những quy tắc ứng xử có nội dung phù hợp tương đối với pháp luật và đạo đức truyền thống của dân tộc. Hương ước có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định, trật tự của cộng đồng làng xã Việt Nam. Cho đến nay nhiều bản Hương ước vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn trong các làng xã. Hiện nay, Nhà nước đang có chính sách phục hồi những bản Hương ước cổ để kết hợp sử dụng trong hoạt động quản xã hội đồng thời đó cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. 6
- “Trong hệ thống điều chỉnh quan hệ xã hội, pháp luật và đạo đức chiếm vị trí trung tâm, và có vai trò quan trọng nhất” [18]. Điều này xuất phát từ những đặc tính ưu việt của pháp luật và đạo đức. Cả pháp luật và đạo đức đều có phạm vi điều chỉnh rộng và được đảm bảo thực hiện bằng những cơ chế có tính bắt buộc mạnh mẽ. Đạo đức được hình thành trong dân gian từ rất lâu đời và được thể hiện trong chính những phong tục, tập quán, luật tục. Đạo đức là sự tổng hợp những nguyên tắc, quan niệm, chuẩn mực xã hội về cái thiện, cái ác, về lẽ công bằng, về lòng trung thực, về lương tâm con người Yếu tố đạo đức luôn xuất hiện trong mọi mối quan hệ xã hội và là chuẩn mực mà các chủ thể luôn hướng tới. Hành vi của con người được nhìn nhận và đánh giá dưới hai góc độ pháp luật và đạo đức. Trong điều kiện phát triển hiện nay, đạo đức càng thể hiện được vai trò của mình trong việc định hướng hành vi con người phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật. Yếu tố đạo đức giúp con người vượt qua mọi cám dỗ để có một phương cách ứng xử phù hợp nhất với những chuẩn mực của xã hội. Mặt khác khi xã hội càng phát triển, đạo đức và những giá trị nhân văn trong mỗi con người càng được đề cao. Nói đến đạo đức là nói đến lĩnh vực thực sự người, và con người chính là cái đích của mọi hoạt động xã hội. Trong xã hội tồn tại nhà nước, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ đạo chiếm vị trí quan trọng số một trong hệ thống điều chỉnh quan hệ xã hội. Pháp luật chính là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật được bảo đảm thực hiện bằng con đường nhà nước. Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật thực hiện hoạt động quản lý xã hội, hướng các quan hệ xã hội theo một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Mặt khác, với thuộc tính xã hội, ở một góc độ nào đó pháp luật ghi nhận, bảo vệ lợi ích của những giai cấp khác trong xã hội. Sử dụng pháp luật là công cụ quản lý xã hội một mặt giai cấp thống trị bảo vệ được sự thống trị của mình mặt khác có thể dung hòa được lợi ích của 7
- những giai cấp khác trong xã hội. Pháp luật không thuần túy chỉ là sản phẩm của Nhà nước mà còn là sự kết tinh của các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống thông qua việc luật hóa những niệm chuẩn mực đạo đức, những phong tục, tập quán tiến bộ trong dân gian. Với những đặc tính ưu việt như vậy, pháp luật đóng vai trò là công cụ hữu hiệu được nhà nước sử dụng nhằm bảo đảm sự ổn định, sự phát triển bình thường của xã hội. Tuy nhiên pháp luật không thể thực hiện được vai trò của mình nếu không có sự hỗ trợ của các quy phạm xã hội khác. Không phải lúc nào và ở đâu pháp luật cũng có thể điều chỉnh được hết thảy những lĩnh vực, những mối quan hệ trong đời sống xã hội. Mỗi quy phạm xã hội đều có những ưu thế và hạn chế riêng, có thể ở những mối quan hệ mà pháp luật không thể vươn tới điều chỉnh được lại là phạm vi điều chỉnh của phong tục, tập quán... Bên cạnh những điểm hạn chế, lạc hậu, chưa phù hợp với cuộc sống hiện đại, các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán vẫn có những quan niệm tích cực, tiến bộ có hiệu quả điều chỉnh như pháp luật. Vì vậy, việc sử dụng các quy phạm đạo đức, cũng như những quy phạm xã hội khác là một điều cần thiết trong hoạt động quản lý của nhà nước bên cạnh các quy phạm pháp luật. 1.1.2 Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức 1.1.2.1. Sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức Pháp luật và đạo đức là hai hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, giữa pháp luật và đạo đức tồn tại nhiều điểm chung, tương đồng, chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong hoạt động điều chỉnh xã hội của nhà nước. Cả pháp luật và đạo đức đều có chức năng, mục đích là điều chỉnh hành vi con người xã hội. Mục đích chung mà cả pháp luật và đạo đức đều hướng tới đó là nhằm xác lập, củng cố trạng thái ổn định của các mối quan hệ xã hội dựa trên quan niệm về cái thiện, cái tốt, cái có ích. Cả pháp luật và đạo đức đều 8
- được sinh ra, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định, chịu sự chi phối của các điều kiện chính trị, văn hóa, tư tưởng. Điều này đã tạo nên sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức. Giữa pháp luật của nhà nước và đạo đức truyền thống không có sự đối lập, cả hai đều hướng tới mục tiêu vì sự công bằng và lẽ phải, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là đối tượng bảo vệ, nhằm thiết lập nên những mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội. Nếu như đạo đức truyền thống đưa ra những quan niệm về tình yêu thương giữa con người với con người, về cái thiện cái ác, về lòng vị tha, sự trung thành thì pháp luật của Nhà nước lại thể hiện tính nhân dân, nhân đạo sâu sắc, là đại lượng của sự công bằng và lẽ phải. Pháp luật thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi thông qua việc quy định địa vị pháp lý cho các chủ thể trong xã hội (bao gồm các quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước) những điều được phép làm, những điều bị ngăn cấm và những hành vi được sự khuyến khích của Nhà nước. Trong một giới hạn nhất định, pháp luật đã đưa ra những sự lựa chọn nhằm định hướng hành vi con người theo những chuẩn mực do nhà nước đặt ra. Hoạt động điều chỉnh của pháp luật được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Không giống như pháp luật, đạo đức thực hiện sự điều chỉnh xã hội thông qua dư luận xã hội và lương tâm con người. Đạo đức cũng đưa ra những chuẩn mực mà theo đó con người được phép làm những gì, không được phép làm những gì, có những hành vi bị ngăn cấm và có những hành vi nhận được sự cổ vũ khuyến khích. Tuy nhiên, đạo đức thực hiện điều chỉnh hành vi con người thông qua việc tạo dư luận xã hội, dư luận cộng đồng nhằm lên án, bài trừ cái ác, cái xấu, khuyến khích cái thiện và bằng việc việc khơi dậy ý thức tự giác, tự nguyện trong mỗi người. Như vậy, có thể nhận thấy giữa pháp luật và đạo đức có sự tương đồng về cách thức điều chỉnh hành vi con người. Cả pháp luật và đạo đức đều xác định cho các chủ thể những hành vi được phép làm, bắt buộc phải làm và 9

