Luận văn Tính đa dạng khu hệ thú, ảnh hưởng của con người và các giải pháp bảo tồn tài nguyên thú rừng ở khu bảo tồn thiên nhiên Chư Mom Ray tỉnh Kon Tum

pdf 77 trang Quỳnh Hoa 07/12/2025 60
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tính đa dạng khu hệ thú, ảnh hưởng của con người và các giải pháp bảo tồn tài nguyên thú rừng ở khu bảo tồn thiên nhiên Chư Mom Ray tỉnh Kon Tum", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_tinh_da_dang_khu_he_thu_anh_huong_cua_con_nguoi_va.pdf

Nội dung tài liệu: Luận văn Tính đa dạng khu hệ thú, ảnh hưởng của con người và các giải pháp bảo tồn tài nguyên thú rừng ở khu bảo tồn thiên nhiên Chư Mom Ray tỉnh Kon Tum

  1. Bộ giáo dục và đào tạo Bộ Nông nghiệp và PTNT Trường đại học lâm nghiệp Nguyễn Quốc Tuấn TÍNH ĐA DẠNG KHU HỆ THÚ, ẢNH HƯỞNG CỦA CON NGƯỜI VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN TÀI NGUYấN THÚ RỪNG Ở KHU BẢO TỒN THIấN NHIấN CHƯ MOM RAY TỈNH KON TUM Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp Tây Nguyên, 2002
  2. Bộ giáo dục và đào tạo Bộ Nông nghiệp và PTNT Trường đại học lâm nghiệp Nguyễn Quốc Tuấn TÍNH ĐA DẠNG KHU HỆ THÚ, ẢNH HƯỞNG CỦA CON NGƯỜI VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN TÀI NGUYấN THÚ RỪNG Ở KHU BẢO TỒN THIấN NHIấN CHƯ MOM RAY TỈNH KON TUM Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Nhật Tây Nguyên - 2002
  3. 0 Đặt vấn đề Rừng là một nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, an ninh chính trị, quốc phòng và đảm bảo cân bằng môi trường sinh thái. Rừng là một bộ phận quan trọng của sinh quyển và đã từ lâu nó được xem như là lá phổi xanh của nhân loại. Tuy nhiên, do nhiều lý do, do các tác động trực tiếp hay gián tiếp của con người nên tài nguyên rừng Việt Nam ngày càng suy giảm cả về trữ lượng và chất lượng. Năm 1945 diện tích rừng nước ta đạt 14,3 triệu ha với độ che phủ tương ứng 43%, nhưng đến năm 1995 cả nước chỉ còn 9,3 triệu ha rừng (trong đó có 01 triệu ha rừng trồng) và độ che phủ tương ứng của rừng chỉ đạt 28%. Thậm chí, độ che phủ rừng ở một số vùng tự nhiên quan trọng đang ở mức đáng báo động: Sơn La 10%, Lai Châu 13%, Cao Bằng 12%. Giai đoạn 1980-1989, mỗi năm, trung bình nước ta mất hơn 100 nghìn ha rừng tự nhiên. Từ 1989 đến nay, tuy xu hướng mất rừng có giảm, nhưng vẫn ở mức 60 nghìn ha/ năm. Mất rừng tự nhiên đã đe doạ nghiêm trọng đến tính đa dạng sinh học của Việt Nam, đặc biệt là sự suy thoái của các quần thể động thực vật hoang dã, nhiều loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Khu BTTN Chư Mom Ray là khu bảo tồn duy nhất của Việt Nam nằm tiếp giáp với 2 nước bạn Lào và Cămpuchia, được các nhà khoa học trong và ngoài nước đánh giá là một trong những Khu Bảo tồn có giá trị đa dạng sinh học cao của khu vực Tây Nguyên và cả nước. Đặc biệt, Khu Bảo tồn Chư Mom Ray không những có tính đa dạng các loài thú cao mà còn là nơi tập trung nhiều loài thú quí hiếm (42 loài nguy cấp và dễ bị thương tổn có mặt ở Việt Nam), trong đó có 20 loài được xếp vào danh sách các loài thú ở Đông Dương có nguy cơ tuyệt chủng. Ngoài thú, Khu BTTN Chư Mom Ray còn có 208 loài chim, 51 loài bò sát và 17 loài ếch nhái và là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật quí hiếm như: Hổ, Báo gấm, các loài bò rừng, Gà tiền mặt đỏ, Hồng hoàng, Công, ... Các loài thú thuộc nhóm Linh trưởng và Móng guốc có ở Miền Nam hầu như đều có mặt ở đây. Khu BTTN Chư Mom Ray là một trong số rất ít khu bảo tồn ở Tây Nguyên có nhiều cơ hội nhất còn lưu giữ loài bò xám (Bos sauveli). 1
  4. Ngay từ năm 1982 (4/7/1982), rừng Chư Mom Ray đã được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra quyết định số 65/HĐBT "V/v tạm thời khoanh vùng núi Chư Mom Ray - Ngọc Vin thuộc huyện Sa Thầy, tỉnh Gia Lai-Kon Tum thành khu rừng cấm " nhằm bảo vệ sự giàu có nguồn tài nguyên động thực vật quí hiếm. Sau một thời gian tiến hành công tác điều tra nghiên cứu và lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, ngày 09/10/1996 Uỷ ban nhân dân tỉnh Kon Tum có quyết định số 1894/QĐ-UB chính thức thành lập Khu BTTN Chư Mom Ray với diện tích 48.658 ha. Ngày 27/01/1996 UBND tỉnh ra quyết định số 09/QĐ-UB thành lập Ban quản lý khu BTTN Chư Mom Ray trực thuộc Chi cục Kiểm lâm Kon Tum (sau đó chuyển sang trực thuộc Sở Nông nghiệp &PTNT theo quyết định số: 101/QĐ-UB ngày 19/10/1998). Các hoạt động của con người như phá rừng làm nương rẫy, khai thác lâm sản trái phép, cháy rừng, săn bắn, bẫy bắt động vật rừng... đã làm cho tài nguyên động vật rừng, đặc biệt là thú rừng của Khu BTTN Chư Mom Ray ngày càng bị suy giảm nghiêm trọng. Tính từ năm 1996 đến nay, Ban Quản lý Khu BTTN Chư Mom Ray đã phát hiện và chuyển Hạt kiểm lâm huyện Sa Thầy xử lý nhiều vụ vi phạm pháp luật về rừng, trong đó có 06 vụ săn bắt động vật rừng quí hiếm; 11 vụ khai thác lâm sản và phá rừng làm nương rẫy trái phép (trong đó khởi tố 03 vụ); Cháy rừng 03 vụ; Tàng trữ lâm sản trái phép 02 vụ; Vận chuyển lâm sản trái phép 01 vụ. Ngoài ra, còn hàng trăm vụ săn bắt trái phép động vật hoang dã chưa được phát hiện. Như vậy, ở Khu BTTN Chư Mom Ray, cùng với sự đa dạng của các loài thực vật thì còn có một nhân tố rất quan trọng là sự đa dạng của các loài động vật rừng. Bên cạnh là một thành phần cấu trúc và chức năng thì động vật rừng còn là một yếu tố điều khiển quan trọng đối với các quần xã sinh vật và hệ sinh thái rừng. Vì vậy việc nghiên cứu đầy đủ tính đa dạng của khu hệ thú cũng như những ảnh hưởng của con người đến tài nguyên thú rừng là điều rất cần được quan tâm hiện nay. Các số liệu nghiên cứu là cơ sở giúp cho các nhà quản lý đưa ra những giải pháp hữu hiệu trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và lưu giữ những nguồn gen động thực vật quí hiếm nói riêng cho nước nhà. 2
  5. Với mong muốn được đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào việc bảo tồn đa dạng sinh học của địa phương, tôi đã chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: "Tính đa dạng của khu hệ thú, ảnh hưởng của con người và các giải pháp bảo tồn tài nguyên thú rừng ở Khu bảo tồn thiên nhiên Chư Mom Ray, tỉnh Kon Tum". 3
  6. 1 Chương 1 Lược sử vấn đề nghiên cứu Nghiên cứu tính đa dạng sinh học của động thực vật nói chung và của khu hệ thú nói riêng đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ lâu đời. Tuy nhiên, đặc điểm khu hệ thú ở từng quốc gia, từng địa phương đến nay vẫn còn nhiều điểm trống. Sơ lược các công trình nghiên cứu về thú của các nhà khoa học trong và ngoài nước. 1.1. Thế giới: Năm 1828, George Finlayson (người Anh) đã công bố trong tài liệu “The Misson to Siam and Hue, the Capital of Cochin China in the years 1821-1822” về những loài thú bước đầu gặp ở Việt Nam, Lào, Cămpuchia. Trong thời kỳ đô hộ tại Việt Nam, người Pháp đã có những hoạt động nghiên cứu bước đầu nhằm tìm hiểu thiên nhiên nước ta, nhiều tài liệu về thú Nam Bộ được các nhà động vật học nghiệp dư công bố như Jonan (1868); Morice (1875); Hamy (1876); Harmand (1881); Germain (1887)... Năm 1887, Brousmiche đã xuất bản tài liệu “Nhìn chung về lịch sự tự nhiên của Bắc Bộ”. Trong tài liệu này, ông đã giới thiệu một số loài thú có giá trị kinh tế như Hổ, Báo, Khỉ, Tê tê, Nai, Hoẵng... và khu phân bố của chúng. Năm 1894, Heude công bố về loài Sơn dương (Capricornis maritimus) ở Bắc bộ. Năm 1896, De Pousargues thông báo tìm thấy loài vượn mới (Hylobates henrici) ở Lai Châu và loài Voọc đen (Phithecus francoisi-1898) ở khu vực giáp ranh Bắc Bộ và Trung bộ. Đáng chú ý hơn, công trình nghiên cứu về thú được coi là tương đối hoàn chỉnh đã được đoàn Pavie thực hiện từ năm 1879 đến 1898. Bên cạnh việc nghiên cứu về Lịch sử tự nhiên ở Đông Dương, ông cũng đã có những nghiên cứu tương đối kỹ về các loài thú ở Miền Nam Việt Nam. Các nghiên cứu này được De Pousargues tổng hợp và xuất bản cuốn “Recherches sur I'Histoire naturelle de I'Indochine Orientale. Mission Pavie. 1879-1898" (1904). Sách đã thống kê được 200 loài và loài phụ thú ở Việt Nam, Lào, Cămpuchia và Thái Lan; trong đó ở Việt Nam đã thống kê được 117 loài và loài phụ thú. 4
  7. Cũng trong khoảng thời gian đó, đoàn khoa học thường trú Đông Dương do Boutan dẫn đầu doàn khảo sát thú miền Bắc Việt Nam. Kết quả đã được đăng trong Bulltine Museum Naturelle (Ménégeux, 1905 - 1906). Năm 1906, Boutan đã viết cuốn “Mười năm nghiên cứu động vật” nêu nhiều dẫn liệu về hình thái, sinh học và phân bố của 10 loài thú. Năm 1969, P.F.D.Van Peenen đã có nhiều nghiên cứu về các khu hệ thú ở các tỉnh phía Nam (từ Đà Nẵng đến Nam Bộ) và đã rất chú trọng đến phân loại học. Kết quả nghiên cứu đã được đăng trong cuốn “Prelimitary Identification Manual for Mammals of South Viet Nam” đã thống kê và mô tả sơ bộ được 217 loài và phân loài thú có ở miền nam Việt Nam. 1.2. Việt Nam: Nghiên cứu thú ở miền Bắc Việt Nam sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954) có những bước tiến bộ và nhiều công trình được đăng tải trong các tạp chí trong và ngoài nước, trong các sách chuyên khảo, tiêu biểu có: - Đặng Huy Huỳnh (1968) đã công bố một phần kết quả nghiên cứu về thú ăn thịt và thú móng guốc miền Bắc Việt Nam. - Lê Hiền Hào (1973)[21] đã xuất bản cuốn “Thú kinh tế miền bắc Việt Nam” trong đó giới thiệu một số đặc điểm sinh học, sinh thái, phân bố và ý nghĩa kinh tế của 41 loài thú kinh tế miền bắc Việt Nam - Cao Văn Sung, Đặng Huy Huỳnh, Bùi Kính, (1980) đã viết cuốn “Những loài gặm nhấm Việt Nam” - Dao Van Tien (1983). On the North Indochinese Gibbons (Hylobates concolor) (Primates: Hylobatidae) in North Vietnam; Khảo sát thú miền Bắc Việt Nam (1985); On the trends of the evolutionary radiation on the Tonkin leaf monkey (Presbytis francoisi, Primate: Cercopithecidae) (1989). - Năm 1992 cuốn “Sách đỏ Việt Nam” [3] - Phần động vật được xuất bản. Đây là một tài liệu quan trọng giới thiệu 359 loài động vật (80 loài thú) trên các phương diện hình thái, sinh học, sinh thái, phân bố, giá trị cũng như tình trạng của chúng ở Việt Nam. 5
  8. - Năm 1994, cuốn “Danh lục các loài thú (Mammalia) Việt Nam” do Đặng Huy Huỳnh chủ biên [11] đã liệt kê 223 loài thú thuộc 37 họ trong 12 bộ thú có mặt ở Việt Nam. Đây có thể là bản danh lục hoàn chỉnh nhất về các loài thú có mặt ở Việt Nam và chúng được sắp xếp theo hệ thống phân loại mới nhất cùng vùng phân bố, giá trị và tình trạng của các loài. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu riêng biệt về từng bộ như: “Thú móng guốc”(1986) của Đặng Huy Huỳnh[10], "Thú ăn thịt" của Phạm Trọng ảnh (1982), “Thú linh trưởng” của Phạm Nhật [26, 27], "Thú họ Cầy" của Nguyễn Xuân Đặng (1994), ... Những năm gần đây, nhiều tài liệu hướng dẫn thực địa cho các nhóm động vật cũng đã được biên soạn, về thú có “Sổ tay ngoại nghiệp nhận diện các loài thú vùng Phong Nha Kẻ Bàng" của Phạm Nhật & Nguyễn Xuân Đặng (2000) và “Sổ tay ngoại nghiệp nhận diện các loài thú của Vườn quốc gia Cát Tiên" của Phạm Nhật, Nguyễn Xuân Đặng & Get Poalet (2001) [28], trong đó đã nêu chi tiết các đặc điểm nhận biết và tập tính sinh thái của 53 loài thú tiêu biểu của vườn quốc gia Cát Tiên nói riêng và vùng Nam Trung bộ, Nam Bộ nói chung. Đặc biệt, việc phát hiện ra 4 loài thú mới ở Việt Nam Sao La (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Mang Trường Sơn (Canimuntiacus truongsonensis), Bò sừng xoắn Tây Nguyên (Pseudonovinus spiralis) trong những năm gần đây đã nói lên Khu hệ thú Việt Nam còn nhiều điều bí ẩn và chúng ta còn nhiều việc phải nghiên cứu. * Các nghiên cứu về động vật ở Tây Nguyên và ở Khu BTTN Chư Mom Ray: Khu hệ động vật ở Tây Nguyên cũng đã được một số nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu, đáng quan tâm có: Prelimitary Identification Manual for Mammals of South Viet Nam của Van Peenen (1969) [38], “Bước đầu tìm hiểu khu hệ thú ở Gia Lai, Kon Tum” của Đặng Huy Huỳnh, Bùi Kính, Trương Minh Hoạt (1979), “Khu hệ và tài nguyên động vật Tây Nguyên” của Đặng Huy Huỳnh và Võ Quí (1981), “Nghiên cứu bộ Guốc chẵn (Artiodactyla) ở Tây Nguyên” của Đặng Huy Huỳnh và Hoàng Minh Khiên (1981), “Khu hệ thú (Mammalia) ở Tây Nguyên” 6
  9. của Đặng Huy Huỳnh, Hoàng Minh Khiêm, Vũ Thị Thuỷ và Đặng Ngọc Cần (1982), "Thú hoang dại vùng Sa Thầy" của Trần Hồng Việt (1986), “Đặc điểm khu hệ thú và nguồn lợi động vật khu BTTN Chư Mom Ray” của Đỗ Tước, Ngô Tư (1995). Như vậy, tính đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về khu hệ động vật ở Tây Nguyên nói chung và ở Khu BTTN Chư Mom Ray nói riêng. Các nghiên cứu đó đã có những phát hiện quan trọng về thành phần loài và các loài động vật quí hiếm. Tuy nhiên những nghiên cứu về tính đa dạng khu hệ thú trên các khía cạnh tổ thành, đa dạng về phân loại, đa dạng về yếu tố địa lý động vật và đa dạng về giá trị cũng như về ảnh hưởng các hoạt động của con người còn hạn chế. Đặc biệt hình như chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về hiện trạng và đề xuất những giải pháp quản lý hiệu quả tài nguyên thú dựa trên cơ sở cộng đồng ở khu BTTN Chư Mom Ray. 7