Luận văn Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
luan_van_quyen_tiep_can_thong_tin_trong_phap_luat_quoc_te_va.pdf
Nội dung tài liệu: Luận văn Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN 6 1.1. Quyền tiếp cận thông tin 6 1.2. Ý nghĩa của quyền tiếp cận thông tin 12 Chương 2: QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT 16 QUỐC TẾ 2.1. Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế 16 2.1.1. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 16 2.1.2. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 17 2.1.3. Luật mẫu về tự do thông tin (do ARTICLE 19 xây dựng) 19 2.1.3.1. Các nguyên tắc của Luật mẫu về tự do thông tin 19 2.1.3.2. Một số nội dung cơ bản của Luật mẫu về tự do thông tin 22 2.1.4. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 29 2.2. Xu hướng ban hành và đặc điểm luật tiếp cận thông tin của 31 các quốc gia trên thế giới Chương 3: QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT 43 VIỆT NAM 3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin 43 3.2. Nguyên nhân thực trạng, nhu cầu và giải pháp hoàn thiện 65 pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam 4
- 3.2.1. Nguyên nhân thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền tiếp 65 cận thông tin 3.2.2. Nhu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền 72 tiếp cận thông tin ở Việt Nam KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tiếp cận thông tin đã trở thành một nhu cầu và một quyền cấp thiết cần phải bảo đảm đối với mọi công dân bởi thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật, chính sách và hoạt động của các cơ quan nhà nước được coi là yếu tố cốt yếu trong mọi hoạt động khi xã hội được quản lý, vận hành theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin là quyền cơ bản của con người, đây không phải là khái niệm mới nhưng nó chỉ trở thành mối quan tâm trên phạm vi quốc tế sau khi Liên hợp quốc ra đời. Trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 59, quy định: tự do thông tin là quyền con người cơ bản và là nền tảng của tất cả các quyền tự do khác. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người được thông qua vào năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và trong một số công ước quốc tế như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003 cũng đều đề cập đến quyền tiếp cận thông tin. Nhiều quốc gia cũng đã công nhận tầm quan trọng của tiếp cận thông tin với tư cách là một quyền của con người và cũng là một quyền quan trọng trong việc nâng cao khả năng điều hành, tăng cường tính minh bạch, phòng và chống tham nhũng trong các hoạt động của Chính phủ. Điều này được ghi nhận bằng các đạo luật của quốc gia. Trên thế giới, tính đến tháng 9 năm 2009, đã có 140 quốc gia ban hành Luật về tiếp cận thông tin. Rất nhiều quốc gia cũng đang trong quá trình chuẩn bị ban hành luật này hoặc ban hành nghị định riêng để điều chỉnh về vấn đề này. Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền được thông tin. 6
- Theo đó, công dân có quyền được biết những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, được thông tin những vấn đề cấp thiết, gắn liền với cuộc sống hàng ngày. Quyền được thông tin của người dân phản ánh bản chất xã hội ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi việc của quốc gia phải được cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Trước đây, vì nhiều lý do, nhất là trải qua chiến tranh, nên việc tạo điều kiện cho công dân được thông tin còn hạn chế. Đến nay, chúng ta nhận thấy quyền tiếp cận thông tin là quyền rất cần thiết và quyền đó phải được thể hiện một cách chính thống thông qua một đạo luật để quy định cụ thể những gì người dân được thông tin, những gì hạn chế, cấm thông tin. Vì vậy, việc nghiên cứu quyền tiếp cận thông tin trên cơ sở những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam là vô cùng cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài Trên thực tế, quyền tiếp cận thông tin đã có nhiều công trình nghiên cứu do các học giả, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước thực hiện như: đề tài của nhóm tác giả: Nguyễn Đăng Dung - Phạm Hồng Thái - Vũ Công Giao - Trịnh Quốc Toàn - Lã Khánh Tùng (2011), "Tiếp cận thông tin: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; đề tài cấp bộ của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng năm 2011: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng Luật tiếp cận thông tin", đề tài của GS.TS Nguyễn Đăng Dung và TS. Vũ Công Giao (2011), "Dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam: phân tích, so sánh với Luật mẫu của ARTICLE 19 và luật của một số nước trên thế giới", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2. Bên cạnh đó có rất nhiều Hội thảo trong nước được tổ chức nhằm nghiên cứu về quyền tiếp cận thông tin, như: Hội thảo "Quyền tiếp cận thông tin - Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam" do Viện Nghiên cứu Quyền con người, 7
- Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Đại sứ quán Anh tổ chức ngày 10 - 11/01/2008, tại Hà Nội nhằm góp phần cung cấp những cơ sở khoa học, pháp lý cho việc nghiên cứu, soạn thảo Luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân. Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức Hội thảo "Xây dựng Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam" tại Hà Nội trong hai ngày 06 - 07/5/2009 với sự tham gia của đại diện Ban soạn thảo, Tổ biên tập Luật tiếp cận thông tin, các chuyên gia quốc tế, chuyên gia nghiên cứu Việt Nam và đại diện một số cơ quan, ban, ngành có liên quan tại trung ương và địa phương. Tham dự Hội thảo còn có bà Kara Owen - Phó Đại sứ Anh tại Việt Nam, và ông Toby Mendel - chuyên gia nghiên cứu về tiếp cận thông tin của Tổ chức Article 19 để trao đổi kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và thực hiện Luật Tiếp cận thông tin. Và ngày 19/8/2009, tại thành phố Nha Trang được sự hỗ trợ của Trung tâm Nhân quyền Na Uy, Hội Luật Gia Việt Nam đã tổ chức Hội thảo về "Dự thảo Luật Tiếp cận thông tin - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới" dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam Phạm Quốc Anh, GS.TSKH Đào Trí Úc - Phó chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư kí Hội Luật gia Việt Nam và ông Fredrik Steen, Giám đốc Chương trình Việt Nam, Trung tâm nhân quyền Na Uy. Tuy nhiên, vẫn có ít công trình đề cập đến quyền tiếp cận thông tin theo hướng nghiên cứu tổng thể giữa các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Vì vậy, tác giả chọn đề tài "Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam" làm đề tài luận văn của mình với mong muốn góp phần làm rõ thêm những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về vấn đề này, cũng như xác định nguyên nhân và gợi ý một số giải pháp để thực thi có hiệu quả những quy định về quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục tiêu Luận văn nhằm góp phần làm rõ khái niệm, cơ sở hình thành, phát triển của quyền tiếp cận thông tin và nghiên cứu các quy định của pháp luật 8
- quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin. Đồng thời luận văn cũng tập trung phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra đối với việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp để hoàn thiện các cơ chế pháp lý ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích một cách tổng thể những quy định về quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và trong pháp luật Việt Nam. - Phân tích thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất những giải pháp pháp lý, thực tiễn nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu Quyền tiếp cận thông tin bao gồm những vấn đề rất rộng và được quy định trong rất nhiều những văn bản quốc tế và quốc gia. Dưới góc độ luật học và trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ nghiên cứu một cách tổng thể trên cơ sở khái quát các quy định có liên quan để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường của khoa học xã hội và luật học như: phân tích, tổng hợp, so sánh, Luận văn này tiếp cận theo hướng nghiên cứu định tính. Nguồn tài liệu nghiên cứu là các văn bản pháp luật quốc tế và quốc gia về vấn đề quyền tiếp cận thông tin, cũng như một số báo cáo, nghiên cứu, đánh giá của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội về vấn đề này ở Việt Nam. 6. Đóng góp của luận văn Với việc nghiên cứu tổng thể các quy định về quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, tác giả hi vọng những kiến thức 9
- trong luận văn sẽ góp phần bổ sung thêm vào nguồn tài liệu nghiên cứu về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Đồng thời, những giải pháp, phương hướng đưa ra trong Luận văn sẽ được đánh giá và sử dụng để góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về quyền tiếp cận thông tin. Chương 2: Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế. Chương 3: Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật Việt Nam. 10
- Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN 1.1. QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN Khái niệm quyền tiếp cận thông tin Quyền tiếp cận thông tin (the right of access to information) theo nghĩa chung là nói về khả năng của tổ chức, cá nhân nhận được thông tin về hoạt động của các cơ quan công cộng qua các kênh thông tin công khai, sẵn có mà không cần phải yêu cầu. Trong ngôn ngữ tiếng Việt, thuật ngữ thông tin được hiểu là "tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh" [55]. Theo cách hiểu này thì mọi tin tức về các sự kiện diễn ra trên thế giới tự nhiên và xã hội đều trở thành thông tin. Thực tiễn không phải mọi thông tin đó đều có ý nghĩa với nhà nước, xã hội; đều được sử dụng trong quản lý nhà nước và là nhu cầu cần thiết của mọi công dân, tổ chức. Mặt khác, trong đời sống nhà nước, xã hội, không chỉ có sự kiện mới là những thông tin mà còn là những số liệu, sự thực, hiện tượng, các quá trình, quan hệ đều trở thành những thông tin phục vụ cho hoạt động nhà nước. Nhưng để sử dụng một cách có hiệu quả đòi hỏi phải thu thập, xử lý và hệ thống hóa những thông tin đó dưới những hình thức nhất định. Ngày nay, trong một thế giới mở, nhu cầu thông tin của cá nhân, tổ chức ngày càng nhiều, càng đa dạng, phong phú, tùy theo nhu cầu của mình mà cần những thông tin khác nhau: thông tin về tri thức của nhân loại trên các lĩnh vực tự nhiên, xã hội; thông tin chính trị, thông tin kinh tế, xã hội, thông tin pháp luật; thông tin trong nước, thông tin quốc tế... Như vậy, có bao nhiêu chủ thể - cá nhân, tổ chức thì có bấy nhiêu nhu cầu khác nhau về thông tin. Trong quyền tiếp cận thông tin, thông tin được tiếp cận chủ yếu là những thông tin do các cơ quan công cộng nắm giữ mà chủ thể có quyền tìm kiếm, 11
- tiếp cận và phổ biến nhằm mục đích thực hiện hoặc bảo vệ các quyền; lợi ích hợp pháp của mình. Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin: gồm hai loại chủ thể là chủ thể có quyền tiếp cận thông tin và chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin - Chủ thể có quyền tiếp cận thông tin: gồm tất cả mọi cá nhân, công dân, tổ chức. Với tư cách là chủ thể có quyền, họ nhận được những thông tin cần thiết qua các kênh truyền thông công khai, sẵn có mà không cần phải yêu cầu; được yêu cầu các chủ thể có nghĩa vụ cung cấp những thông tin mà mình cần hoặc quan tâm trong phạm vi khuôn khổ pháp luật cho phép; và được truyền đạt, chia sẻ quan điểm, thông tin với các chủ thể có quyền khác không phân biệt ranh giới hay hình thức phổ biến. - Chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin: gồm các cơ quan công cộng. Theo quan điểm pháp lý của một số nước, chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin thậm chí có thể là tư nhân có hoạt động công quyền, kể cả các doanh nghiệp có sử dụng ngân sách công hoặc ngân sách nhà nước. Với tư cách là chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin, họ phải công khai những thông tin và hoạt động của mình một cách thường xuyên; có trách nhiệm cung cấp thông tin khi có yêu cầu của chủ thể có quyền; tôn trọng, không được ngăn cản quan hệ trao đổi, phổ biến thông tin của các chủ thể có quyền. Các hình thức công khai thông tin Để bảo đảm những thông tin phục vụ cho nhu cầu của mình, của cộng đồng, xã hội, mỗi chủ thể khác nhau có thể tự tìm kiếm, xử lý thông tin qua các kênh như: phương tiện thông tin đại chúng; các ấn phẩm khoa học; văn kiện, văn bản của các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác nhau trong xã hộp; niêm yết công khai tại trụ sở của cơ quan nhà nước; thông qua mạng điện tử của cơ quan nhà nước; công bố cuộc họp; thông báo bằng văn bản; hay thông qua người phát ngôn chính thức của cơ quan, đơn vị... 12
- Giới hạn của việc công khai thông tin Mỗi cá nhân là một thành viên trong cộng đồng, xã hội, mỗi tổ chức là một bộ phận, thiết chế cấu thành xã hội luôn có nhu cầu trao đổi thông tin cho nhau. Chính từ đây nảy sinh quyền thu thập, xử lý, bảo quản thông tin, quyền sử dụng thông tin, quyền trao đổi thông tin, quyền yêu cầu, đòi hỏi các chủ thể khác cung cấp thông tin cho mình. Khi có những thông tin, các cá nhân, tổ chức vì những mục đích khác nhau lại có nhu cầu truyền thông tin của mình cho các chủ thể khác nhau xã hội. Tất cả những quyền này hợp thành "quyền về thông tin" của cá nhân, tổ chức. Khi các cá nhân, tổ chức có quyền về thông tin, thì cũng cần phải ý thức được rằng quyền về thông tin cũng có phạm vi, giới hạn nhất định. Nếu vượt qua giới hạn của nó sẽ xâm phạm với quyền của chủ thể khác trong xã hội. Đó là những bí mật của cá nhân, tổ chức, nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và các tổ chức khác. Vì vậy, tự do thông tin không phải tất cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và tiếp cận thông tin không đồng nhất với việc cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, tiếp cận tất cả các loại hồ sơ, tài liệu lưu giữ thông tin. Việc thực hiện quyền này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, và do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định do pháp luật quy định. Những giới hạn đó là: tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng. Nói chung, những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin phải được pháp luật cho phép hay quy định trước. Điều đó có nghĩa là, việc giới hạn thực hiện quyền này phải được quy định cụ thể trong pháp luật của quốc gia. Theo đó, chính phủ mỗi nước cần xác định rõ những loại thông tin nào là thông tin công cần phải được công khai và những loại thông tin nào cần phải được bảo mật. Nguyên tắc chung là không cần thiết phải giữ kín nếu như việc tiết lộ các loại thông tin đó không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật 13