Luận văn Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
luan_van_phap_luat_ve_to_chuc_hoat_dong_hoa_giai_o_co_so_va.pdf
Nội dung tài liệu: Luận văn Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ THU HUYỀN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2007
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ THU HUYỀN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn HÀ NỘI - 2007
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Mở đầu 1 Chương 1: hòa giải ở cơ sở và sự điều chỉnh của pháp luật đối với tổ 8 chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 1.1. Sự cần thiết giải quyết các tranh chấp, xích mích nhỏ trong 8 cộng đồng bằng hòa giải 1.1.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở 10 1.1.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở 15 1.2. Vai trò của hòa giải ở cơ sở và nhu cầu điều chỉnh bằng 21 pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở 1.2.1. Vai trò của hòa giải ở cơ sở 21 1.2.1.1. Hòa giải góp phần giải quyết ngay, kịp thời, có hiệu quả các vi phạm, xích mích, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, tiết 21 kiệm thời gian, chi phí, công sức của nhân dân cũng như của Nhà nước 1.2.1.2. Hòa giải góp phần khôi phục, duy trì, củng cố sự đoàn kết 22 trong nội bộ nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội 1.2.1.3. Hòa giải góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật 22 của nhân dân. 1.2.1.4. Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống 23 tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
- 1.2.2. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở 23 1.3. Nguyên tắc, phạm vi hòa giải ở cơ sở 25 1.3.1. Nguyên tắc hòa giải ở cơ sở 25 1.3.1.1. Phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp 25 của nhân dân 1.3.1.2. Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp 26 đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hòa giải 1.3.1.3. Khách quan, công minh, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp 27 pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng 1.3.1.4. Kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt 28 được kết quả hòa giải 1.3.2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở 30 1.3.2.1. Những vụ, việc được tiến hành hòa giải 30 1.3.2.2. Những vụ, việc không được hòa giải 32 Chương 2: các quy định pháp luật về Tổ Chức Hoạt Động Hòa Giải 36 ở CƠ Sở và thực tiễn áp dụng 2.1. Thực trạng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 36 2.1.1. Quy định của pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 36 2.1.1.1. Thời kỳ trước năm 1945 36 2.1.1.2. Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay 39 2.1.2. Quản lý nhà nước về công tác hòa giải 47 2.1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về công tác hòa giải 47 2.1.2.2. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước về công tác hòa giải 49
- 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải 55 ở cơ sở 2.2.1. Tổ chức hòa giải ở cơ sở 55 2.2.2. Bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ hòa giải 65 2.2.3. Thể chế tài chính cho hoạt động hòa giải 66 2.3. Những vướng mắc về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 67 2.3.1. Pháp luật chưa đồng bộ, thiếu thống nhất 67 2.3.2. Những vấn đề mới phát sinh về tổ chức hòa giải chưa được 68 giải quyết dứt điểm 2.3.3. Đầu tư nguồn lực 69 Chương 3: phương huớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ 72 chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 3.1 Những phương hướng chủ yếu hoàn thiện pháp luật về tổ 72 chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở phải được tiến hành trong sự phù hợp với các biện pháp thực thi chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp 72 luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo tinh thần Nghị Quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 72 phải đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 74 phải theo hướng phù hợp với việc kiện toàn các thiết chế xã hội tự nguyện trong điều kiện xây dựng và củng cố xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa 3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 75
- phải đáp ứng được yêu cầu củng cố trật tự xã hội, giáo dục đạo đức kết hợp giáo dục pháp luật và những quy ước tiến bộ của cộng đồng 3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở 76 phải hướng tới việc bảo đảm hài hòa giữa các lợi ích, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức 77 hoạt động hòa giải ở cơ sở 3.2.1. Sớm ban hành Luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ 77 sở 3.2.2. Tiếp tục bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động 83 hòa giải 3.2.3. Hoàn thiện các quy định về sự quản lý của Nhà nước, sự 84 phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác hòa giải ở cơ sở 3.2.4. Nâng cao việc tuyên truyền pháp luật về vai trò của hòa 86 giải trong đời sống xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở 3.2.5. Đổi mới công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp 86 vụ hòa giải cho tổ viên Tổ hòa giả kết luận 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 phụ lục 97
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, công tác hòa giải ở cơ sở có vị trí rất quan trọng. Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khóa VII (tháng 1-1995) đã khẳng định: "Coi trọng vai trò hòa giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở" [1, tr. 30]. Chế định hòa giải cũng đã được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: "Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thức hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và những tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật" (Điều 127 Hiến pháp 1992) [29]. Hòa giải thể hiện vai trò của mình trong bảo đảm ổn định xã hội trên nhiều phương diện. Hòa giải ở cơ sở thể hiện đặc điểm lịch sử, đạo đức tâm lý truyền thống của dân tộc. Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý, truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Hòa giải là sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong giải quyết các xung đột nhỏ trong xã hội. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý và tình, đến mức "thấu tình, đạt lý". Hòa giải là một phương thức để thực hiện dân chủ, là sự thể hiện rõ rệt của tư tưởng "lấy dân làm gốc". Một đặc trưng cơ bản của hòa giải là bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên trong việc giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Đây chính là biểu hiện của tính dân chủ trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Thông qua các hình thức hòa giải, đặc biệt là hòa giải ở cơ sở, nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong việc giải quyết các tranh chấp, xây dựng tình làng nghĩa xóm, góp phần ngăn ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, làm giảm số vụ án 1
- phải đưa ra tòa án xét xử. Dễ trăm lần không dân cũng chịu - Khó vạn lần dân liệu cũng xong như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói. Tại Hội nghị tập huấn tư pháp toàn quốc năm 1950 ở Việt Bắc, Hồ Chủ tịch đã nói: "Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn". Hòa giải ở cơ sở là phong trào có sự tham gia của cả hệ thống chính trị ở cơ sở: cấp ủy đảng, chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh..., qua đó xây dựng được một cộng đồng dân cư mà vai trò tự quản của người dân được tăng cường, thực hiện được việc xã hội hóa hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật. Đây là một xu hướng phát triển khách quan của xã hội, theo đó Nhà nước có thể từng bước giao cho nhân dân tự quản những gì họ có thể tự quản được. Đó chính là biểu hiện của một xã hội dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang nghiên cứu để khẳng định nó trong quá trình đổi mới, trong đó có đổi mới việc điều hành, quản lý đất nước và xã hội. Hòa giải đã từng có trong lịch sử làng xã Việt Nam, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (giai đoạn 1945 - 1981), chế định hòa giải được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quy định hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành tư pháp, chế định này hình thành cùng với sự hình thành và phát triển của các cơ quan tư pháp. Nhiệm vụ hòa giải lúc đầu được giao cho Ban Tư pháp xã sau đó được giao cho tổ chức xã hội, đó là Tổ hòa giải - một tổ chức mang tính chất tự quản, dân chủ trực tiếp của nhân dân. Trong giai đoạn từ năm 1982 đến năm 1992, tổ chức và hoạt động hòa giải đã phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên cũng trải qua nhiều thăng trầm, tổ chức và hoạt động hòa giải ở nhiều nơi bị giảm sút, gần như tan rã, hoạt động không hiệu quả. Từ năm 2
- 1992, tổ chức và hoạt động hòa giải đã từng bước được khôi phục, củng cố và phát triển. Ngày 25 tháng 11 năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Đây là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay về hòa giải ở cơ sở, đánh dấu một bước phát triển mới của công tác hòa giải trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị và phát huy dân chủ ở cơ sở. Để thực hiện Pháp lệnh, ngày 18 tháng 10 năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, tiếp đó, Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (thay thế Nghị định 38/CP ngày 04 tháng 6 năm 1993) và Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV ngày 05 tháng 5 năm 2005 của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương (thay thế Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26 tháng 7 năm 1993) đều có quy định về việc quản lý nhà nước đối với công tác hòa giải ở cơ sở. Xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi cao hơn tính tự quản của người dân trong quản lý nhà nước, trong đó có các giải quyết tranh chấp nhỏ, tạo ổn định và trật tự xã hội mà không cần Nhà nước can thiệp vào. Đó là vấn đề có tính quy luật của sự chuyển đổi vai trò của Nhà nước trong thế giới hiện đại. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở trong những năm qua cũng đã bộc lộ những hạn chế như chưa có mô hình thống nhất về tổ chức hòa giải ở cơ sở, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của Tổ hòa giải trong điều kiện hiện nay; về trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác hòa giải, phần lớn tổ viên Tổ hòa giải chưa được bồi dưỡng kiến thức pháp 3
- luật và nghiệp vụ hòa giải thường xuyên, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Bên cạnh đó, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ hòa giải được biên soạn thống nhất còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế cho cán bộ hòa giải nói riêng và công tác hòa giải nói chung Thực tế tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở đang đặt ra nhiều vấn đề trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở từ đó đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng của công tác hòa giải ở cơ sở là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần thực hiện dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, duy trì, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong nhiều năm qua, nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở cũng đã có nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như cuốn sách: "Một số tham luận và kinh nghiệm công tác hòa giải ở cơ sở năm 1996" của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh (1997), "Công tác hòa giải ở cơ sở" do Luật gia Nguyễn Đình Hảo chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997), "Vì hạnh phúc của mọi nhà" do Phó tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Oánh và Luật gia Trần Thị Quốc Khánh chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, đề cập đến thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, chứ không đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận của công tác hòa giải ở cơ sở. 4

