Luận văn Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

pdf 117 trang Quỳnh Hoa 07/12/2025 80
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_mot_so_van_de_ly_luan_co_ban_ve_nha_nuoc_phap_quyen.pdf

Nội dung tài liệu: Luận văn Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN QUỲNH NGA Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT Hµ néi - 2007
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN QUỲNH NGA Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay Mã số : 60 38 01 luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế Hµ néi - 2007
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội Đảng VIII đã khẳng định nhiệm vụ của nhà nước ta là tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: “tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Và Điều 2 Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) một lần nữa khẳng định rõ hơn vấn đề này“Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức”. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là văn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối của Đảng đề ra trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Theo đó, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và thực sự bảo vệ quyền con người. Do vậy việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng và quản lí đất nước và là giải pháp cho các vấn đề về tổ chức quyền lực Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân... Xây dựng nhà nước pháp quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước toàn diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù 1
  4. hợp, cơ chế tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các quyền, lợi ích của công dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ quan nhà nước trở về với xã hội công dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước đứng trên xã hội. Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có nội dung lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta. 2. Mục đích của Luận văn và phạm vi nghiên cứu Mục đích của luận văn là từ lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền tìm ra những phương hướng để xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với mục đích đó, nhiệm vụ chính của luận văn là: - Khái quát chung những tư tưởng, lý luận về nhà nước pháp quyền của thế giới trong các thời kỳ phát triển lịch sử. - Phân tích và đánh giá những quan điểm chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ đó khẳng định rằng nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nửa thế kỷ qua đang được xây dựng thành một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2
  5. - Đưa ra một số kiến nghị về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử dụng là phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và phân tích các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm về việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Luận văn cũng sử dụng các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin và các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và ngoài nước về nhà nước và pháp luật làm tài liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp so sánh đối chiếu để làm sáng tỏ những nội dung của luận văn. 4. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm qua, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại các diễn đàn đã đề cập nhiều đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là định hướng cơ bản và quan trọng nhằm hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên thực tế hiện nay cũng đã có không ít những công trình khoa học, bài viết liên quan đến vấn đề này song mỗi công trình, mỗi bài viết lại đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc xây dựng nhà nước pháp quyền như vấn đế pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước... Bên cạnh đó, cũng có thể thấy với mỗi giai đoạn khác nhau của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, yêu cầu và phương hướng hoàn thiện sẽ có những điểm khác biệt nhất định. Một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền như: Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện nghiên 3
  6. cứu khoa học pháp lý, Nxb.Tư pháp, 2000; Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, TSKH.Lê Cảm-TS.Nguyễn Ngọc Chí, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004; Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, GS.TS.Trần Ngọc Đường, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004; Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb.Tư pháp, 2006; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nguyễn Văn Yểu- GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, Nxb.Chính trị quốc gia, 2006; Tư tưởng Đông, Tây về nhà nước và pháp luật-Những nhân tố nhà nước pháp quyền, PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3/2002 Góp phần nghiên cứu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, TS. Trịnh Đức Thảo & ThS. Tào Thị Quyên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2006 Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể cơ sở lý luận cũng như thực tiễn 20 năm xây dựng đất nước Việt Nam, từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần thiết. 5. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của Luận văn gồm có 3 chương được bố cục như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay Chương 3: Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Chương 1 4
  7. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM 1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ 1.1.1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, loài người đã bắt đầu tìm kiếm những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, những ý niệm ban đầu này đã được các nhà tư tưởng phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, là sức mạnh mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được pháp luật thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước. Những tư tưởng này được hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (thế kỷ VIII-V tr. CN) gắn sự hình thành của các Nhà nước và pháp luật. Giai đoạn thứ hai (thế kỷ V-nửa đầu thế kỷ IV tr. CN) gắn liền sự phát triển cao của các thể chế Nhà nước. Giai đoạn thứ ba (nửa sau thế kỷ IV - thế kỷ II tr. CN) gắn liền với sự suy vong của Nhà nước thành bang Hy Lạp cổ đại. Có thể thấy những tư tưởng này đã có mầm mống ở nhiều nơi trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương Tây. Ở phương Tây Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền với sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã, có phần sâu sắc hơn vì được dựa trên cơ sở tư duy triết học. Các nhà tư tưởng chú ý tới tính tối cao của đạo luật và sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà nước. Họ cho rằng pháp luật là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí của con người 5
  8. và của thế giới xung quanh con người, pháp luật của Nhà nước phải đáp ứng yêu cầu của luật tự nhiên [29]. Trong thế kỷ thứ VI tr. CN, Xôlông (Solon, 638-559 tr. CN) khi chủ trương cải cách triệt để Nhà nước thành bang Hy Lạp đã cho rằng, quyền lực cần đặt ngang hàng với pháp luật và cả hai đều là phương tiện để đạt tới tự do và công bằng. Xôlông xác định sẽ "giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật". Giữa thế kỷ này, Pitago (580-500 tr. CN) đòi phải thực hiện mệnh lệnh của Nhà nước, tức là phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải được đặt cao hơn các phong tục, tập quán truyền thống không thành văn. Cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V tr. CN, Hêracơlit (Heraclite, 530-470 tr. CN) hết sức coi trọng pháp luật và quan niệm rằng, pháp luật là phương thức để thực hiện cái phổ biến. Do đó, "nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của mình". Thế kỷ V tr. CN, Hêrôđôt (Herodote, 480-425 tr. CN) khi so sánh ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà, đã gợi ý về một thể chế chính trị hỗn hợp giữa các giá trị của ba loại chính thể trên. Ông khẳng định, quyền lực trong xã hội là thuộc về dân, xã hội phải được quản lý theo nguyên tắc công bằng trước pháp luật. Đemôcơrít (Democrite, 460-370 tr. CN) cho rằng Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người nhằm liên kết với nhau thành cộng đồng. Nhà nước là sự thể hiện quyền lực chung của công dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật. Cuối thế kỷ V tr. CN, khi nền dân chủ A-ten lâm vào khủng hoảng, Xôcơrat (Socrate, 469, 399 tr. CN) cho rằng dân chủ không thể tồn tại được vì thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực thì công bằng và công lý sẽ bị vi phạm. 6
  9. Cuối thế kỷ V đầu thế kỷ IV tr. CN, Platôn (Platon, 427 - 347 tr. CN) xác định rằng, người cầm quyền phải gạt sang một bên ý chí cá nhân để tuân thủ và nhân danh ý chí của pháp luật. Platôn nhìn thấy “sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không được đề cao và nằm dưới quyền lực của một ai đó. Còn ở nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật, thì tôi thấy ở đó có sự cứu thoát Nhà nước và những lợi ích mà chỉ có Thượng đế mới có thể tặng cho các Nhà nước''. Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực. Pôlybi (Polybe, 201-120 tr. CN) là người La Mã đầu tiên nêu lên những tư tưởng quan trọng về Nhà nước pháp quyền. Theo ông, ''không phải lý trí mà kinh nghiệm đã dạy chúng ta rằng hình thức chính phủ hoàn hảo nhất là hình thức được tạo nên từ ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà". Trong đó cơ quan chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc về quý tộc và các cơ quan dân biểu (hội đồng) thuộc về nhân dân (chủ nô). Phân bố và giám sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm một Nhà nước vững mạnh và phát triển quốc gia La Mã thành một đế quốc hùng mạnh. Xixêrôn (Ceceron, 106 - 43 tr. CN) cho rằng, Nhà nước là ''một cộng đồng pháp lý''. Nhà nước là của chung nhân dân và là trật tự chung. ''Nhân dân không phải là một tập hợp bất kỳ, mà là một tập hợp liên kết với nhau bằng sự thoả thuận về pháp luật và bằng tính cộng đồng của các lợi ích 7
  10. chung''. Nhà nước chỉ có ở nơi nào không có bạo lực và chuyên quyền. Sự cần thiết của Nhà nước bắt nguồn từ bản chất trốn chạy sự cô đơn và khao khát đời sống cộng đồng của con người. Công bằng là mệnh lệnh từ lý trí của con người mà Nhà nước phải tuân theo. Pháp luật là ''lẽ phải chính trực phù hợp với bản chất có trong tất cả mọi sinh vật''. Pháp luật là công pháp giữ vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. ''Phục tùng pháp luật là bắt buộc đối với tất cả mọi người”. Xixêrôn đã xác định được pháp quyền tự nhiên, nhưng pháp quyền đó vẫn còn ''treo lơ lửng trong không khí'' và chưa tìm thấy điểm tựa trong hiện thực. Như vậy có thể thấy, ngay từ thời cổ đại đã có những tư tưởng đề cao vấn đề dân chủ như một hình thức Nhà nước. Theo đó, Nhà nước chỉ là sự thể hiện quyền lợi chung của công dân và lấy việc phục vụ con người cá nhân và xã hội làm mục đích. ý tưởng về sự kết hợp giữa Nhà nước và pháp luật là cách tốt nhất để khách quan hoá Nhà nước, hạn chế ý muốn chủ quan của nhà cầm quyền. Nhà nước tuân theo pháp luật là tuân theo ý chí chung của xã hội. Xuất hiện yêu cầu về Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm sự phát triển của kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm sự tồn tại của bản thân Nhà nước. Bên cạnh đó, quyền lực Nhà nước dù của vua, của quý tộc hay của dân đều thông qua các cá nhân cầm quyền và có xu hướng bị lạm dụng. Quyền lực Nhà nước luôn luôn cũng có xu hướng bành trướng và hạn chế quyền tự do của con người. Để khắc phục tình trạng này cần phân biệt quyền lực Nhà nước thành các quyền khác nhau theo chức năng, nhiệm vụ của nó. Cùng với tư tưởng quản lý xã hội bằng pháp luật, tư tưởng phân chia, kiểm soát quyền lực trong một Nhà nước đã phôi thai. Như vậy, tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, đấu tranh xác lập và phát triển nền dân chủ. Theo các nhà triết học phương Tây, pháp luật không chỉ là công cụ cai trị của Nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối 8