Luận văn Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, liên hệ vào lĩnh vực đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm

pdf 88 trang Quỳnh Hoa 25/06/2025 230
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, liên hệ vào lĩnh vực đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_moi_quan_he_giua_phap_luat_va_dao_duc_lien_he_vao_l.pdf

Nội dung tài liệu: Luận văn Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, liên hệ vào lĩnh vực đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN GIA NINH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC, LIÊN HỆ VÀO LĨNH VỰC ĐẢM BẢO AN TOÀN, VỆ SINH THỰC PHẨM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN GIA NINH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC, LIÊN HỆ VÀO LĨNH VỰC ĐẢM BẢO AN TOÀN, VỆ SINH THỰC PHẨM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - 2011
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT 5 1.1. Nguồn gốc của đạo đức và pháp luật 5 1.1.1. Nguồn gốc của đạo đức 5 1.1.2. Nguồn gốc của pháp luật 10 1.2. Khái niệm đạo đức và pháp luật 11 1.2.1. Khái niệm đạo đức 11 1.2.2. Khái niệm pháp luật 15 1.3. Bản chất của đạo đức và pháp luật 16 1.3.1. Bản chất của đạo đức 16 1.3.2. Bản chất của pháp luật 21 1.4. Vai trò của đạo đức và pháp luật đối với xã hội 23 1.4.1. Vai trò của đạo đức 23 1.4.2. Vai trò của pháp luật 26 1.4.2.1. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền 26 lực nhà nước 1.4.2.2. Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế xã hội 27 1.4.2.3. Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới 28 1.4.2.4. Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các 28 mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia
  4. Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT 29 TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 2.1. Khái quát về Nhà nước pháp quyền 29 2.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền 29 2.1.2. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền 31 2.2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong nhà nước pháp quyền 35 2.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đạo đức và 39 pháp luật 2.2.2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật 41 2.3. Thực trạng mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong 48 điều kiện nền kinh tế thị trường Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ XÃ HỘI VÀ ĐẢM 54 BẢO VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM BẰNG PHÁP LUẬT, KẾT HỢP VỚI ĐẠO ĐỨC TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ HỘI NHẬP 3.1. Thực trạng vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại 54 Việt Nam 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp 62 với đạo đức 3.2.1. Giải pháp tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật 62 3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế 63 3.2.1.2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp 64 luật xã hội chủ nghĩa 3.2.1.3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật 64 3.2.1.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh 65 những hành vi vi phạm pháp luật 3.2.2. Giải pháp ghi nhận đạo đức nhiều hơn vào các văn bản pháp luật 66 3.3. Giải pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm 71 KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cùng với Nhà nước, pháp luật là yếu tố ra đời sớm nhất trong một hình thái kinh tế xã hội. Điều này phần nào thể hiện được tầm quan trọng của pháp luật đối với xã hội. Bởi vậy, mỗi nhà nước trong quá trình phát triển luôn chú trọng xây dựng và sửa đổi để có được hệ thống pháp luật hoàn thiện. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật có thể coi là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia. Nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật do đó xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện chính là góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là pháp luật là công cụ duy nhất giúp Nhà nước quản lý xã hội. Nhà nước còn có thể quản lý xã hội bằng các công cụ khác như: công cụ kinh tế, công cụ đạo đức Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ xã hội phát sinh ngày càng nhiều và đa dạng, điều này đòi hỏi Nhà nước phải luôn luôn nâng cao hiệu lực quản lý của các công cụ đã có và sử dụng thêm những công cụ mới. Một trong những công cụ được sử dụng phổ biến và có ý nghĩa lớn đó là công cụ đạo đức. Đây là công cụ có bề dày lịch sử, bắt nguồn từ tư tưởng Đức trị của Nho giáo mà người khởi xướng là Khổng Tử, được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối nhân chính dưới thời Mạnh Tử. Tư tưởng này vẫn luôn được kế thừa và phát triển qua các thời đại, song song tồn tại và cùng phát triển với tư tưởng pháp trị. Tại Việt Nam, tư tưởng này được thể chế hóa trong các quy định của pháp luật, thể hiện ở vai trò của đạo đức đối với việc quản lý xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với xã hội Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, điều này khiến vấn 1
  6. đề đạo đức trở thành vấn đề cần được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đạo đức và Pháp luật thực sự gắn kết với nhau và phát huy được hiệu quả quản lý xã hội một cách tốt nhất. Với trăn trở đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề: "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, liên hệ vào lĩnh vực bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật không phải là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên số lượng các công trình nghiên cứu về vấn đề này lại chưa nhiều, có thể kể đến một số công trình như: "Quyền lực và đạo đức" của PGS.TS Bùi Đình Phong đăng trên Báo Lao động ngày 19/07/2009; "Quan điểm mácxít về mối quan hệ Đạo đức - Chính trị - Pháp quyền" của Đỗ Hữu Nhân, đăng trên Tạp chí Triết học, số ra ngày 07/07/2005; "Các kiểu đạo đức trong lịch sử, tính kế thừa của sự phát triển đạo đức" của Đoàn Hữu Lượng, đăng trên Tạp chí Triết học, số ra ngày 14/08/2008; "Quan hệ pháp luật và đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh" của ThS. Trần Nghị - Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ; Tuy nhiên, các bài viết này chỉ đơn thuần đề cập tới những nét cơ bản của vấn đề đạo đức và vấn đề pháp luật mà chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu sâu sắc về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức và pháp luật, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, vai trò của đạo đức và pháp luật trong đời sống xã hội, thực trạng vấn đề đạo đức và pháp luật, từ đó thấy được những bất cập của hai vấn đề trên và đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập ấy. Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra như sau: 2
  7. - Làm rõ một số vấn đề lý luận về đạo đức và pháp luật như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của đạo đức và pháp luật. - Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức và pháp luật trong xã hội nước ta, liên hệ với vấn đề đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm. - Đưa ra các giải pháp về mặt đạo đức và pháp luật nhằm đảm bảo vấn đề an toàn, vệ sinh thực phẩm nói riêng và đảm bảo hiệu quả quản lý xã hội của đạo đức và pháp luật nói chung. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề cơ bản về đạo đức và pháp luật, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của đạo đức và pháp luật. Về đề tài "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, liên hệ vào lĩnh vực bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm" có nhiều vấn đề cần bàn luận, tuy nhiên, trong phạm vi khuôn khổ một luận văn thạc sĩ chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của đạo đức và pháp luật; mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật; nêu lên và phân tích thực trạng đạo đức và pháp luật trong xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện qua vấn đề đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của đạo đức và pháp luật. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên khảo có tính hệ thống về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Luận văn có những điểm mới sau: 3
  8. - Phân tích, làm sáng tỏ khái niệm đạo đức và khái niệm pháp luật. - Phân tích, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. - Nêu lên được thực trạng vấn đề đạo đức và pháp luật của nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đưa ra được dẫn chứng sinh động nhằm minh họa. - Đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh xã hội của đạo đức và pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đạo đức và pháp luật. Chương 2: Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý xã hội và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm bằng pháp luật, kết hợp với đạo đức trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập. 4
  9. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT 1.1. Nguồn gốc của đạo đức và pháp luật Khi tìm hiểu về bất kỳ vấn đề, yếu tố nào trong xã hội, điều trước tiên cần quan tâm đó là nguồn gốc hình thành, cơ sở của nó. Nhờ đó, ta có được cái nhìn sơ bộ, tổng quan nhất về sự vật, hiện tượng đồng thời thấy được tiến trình phát triển của chúng. 1.1.1. Nguồn gốc của đạo đức * Quan điểm về nguồn gốc đạo đức của các nhà triết học trước Mác: Trước Mác, Ăngghen, những nhà triết học (kể cả duy tâm và duy vật) đều rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Do vậy, đạo đức với tính cách là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người, của xã hội được nhìn nhận một cách tách rời cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các nhà triết học, đạo đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở ngay chính bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên ngoài xã hội. Nét chung của các lý thuyết này là không coi đạo đức phản ánh cơ sở xã hội, hiện thực khách quan. Các nhà triết học - thần học coi con người và xã hội chẳng qua chỉ là những hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó. Những chuẩn mực đạo đức, do vậy là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra để răn dạy con người. Mọi biểu hiện đạo đức của con người do vậy đều là sự thể hiện cái thiện tối cao từ đấng siêu nhiên; và tiêu chuẩn tối cao để thẩm định thiện - ác chính là sự phán xét của đấng siêu nhiên đó. 5
  10. Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy không mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ tới "ý niệm" hoặc "ý niệm tuyệt đối", về các lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự như vậy. Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực "tiên thiên" của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là "thiện ý" theo cách gọi của Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con người. Những nhà duy vật trước Mác, mà tiêu biểu là L.Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ con người, người với người. Nhưng với ông, con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại. Những người theo quan điểm Đác Uyn xã hội đã tầm thường hóa chủ nghĩa duy vật bằng cách cho rằng những phẩm chất đạo đức của con người là đồng nhất với những bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức về thực chất cũng chỉ là những năng lực được đem lại từ bên ngoài con người, từ xã hội. * Quan điểm mácxít về nguồn gốc của đạo đức: Khác với tất cả các quan niệm trên, Mác - Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Theo Mác, Ăngghen, con người khi sống phải có "quan hệ song trùng". Một mặt, con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn cuộc sống của mình. Tự nhiên không thỏa mãn con người, điều đó buộc con người phải xông vào tự nhiên để thỏa mãn mình. Mặt khác, khi tác động vào tự nhiên, con người không thể đơn độc, con người phải quan hệ với con người để tác động vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa người và người là hệ quả của hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. 6