Luận văn Hòa giải cơ sở - Qua thực tiễn ở huyện Gia Lâm

pdf 116 trang Quỳnh Hoa 18/07/2025 90
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hòa giải cơ sở - Qua thực tiễn ở huyện Gia Lâm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hoa_giai_co_so_qua_thuc_tien_o_huyen_gia_lam.pdf

Nội dung tài liệu: Luận văn Hòa giải cơ sở - Qua thực tiễn ở huyện Gia Lâm

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHI LONG HÒA GIẢI CƠ SỞ - QUA THỰC TIỄN Ở HUYỆN GIA LÂM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHI LONG HÒA GIẢI CƠ SỞ - QUA THỰC TIỄN Ở HUYỆN GIA LÂM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn Hà nội - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÒA GIẢI 8 CƠ SỞ 1.1. Xung đột xã hội và giải quyết xung đột xã hội bằng hòa giải 8 1.1.1. Xung đột xã hội và phương thức giải quyết xung đột xã hội 8 1.1.2. Triết lý hòa giải trong giải quyết tranh chấp, xích mích 10 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi của hòa giải ở cơ sở 14 1.2.1. Khái niệm "hòa giải ở cơ sở" 14 1.2.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở 20 1.2.3. Phạm vi hòa giải ở cơ sở 22 1.3. Khái quát thể chế hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam 27 1.3.1. Thời kỳ trước năm 1945 27 1.3.2. Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1998 30 1.3.3. Thời kỳ từ năm 1998 đến nay 35 1.4. Hòa giải của một số nước trong khu vực và kinh nghiệm 41 đối với Việt Nam 1.4.1. Hòa giải ở Trung Quốc 41 1.4.2. Hòa giải ở Thái Lan 42 1.4.3. Hòa giải ở Singapore 44 3
  4. 1.4.4. Hòa giải ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 44 1.4.5. Hòa giải ở Nhật Bản 46 1.4.6. Những kinh nghiệm cho Việt Nam 48 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 49 TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM 2.1. Những điều kiện lịch sử, văn hóa chi phối và ảnh hưởng 49 đến hoạt động hòa giải của huyện Gia Lâm 2.2. Việc áp dụng các quy định về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn 55 huyện Gia Lâm 2.2.1. Những quy định chung về hòa giải ở cơ sở 55 2.2.2. Những quy định của thành phố Hà Nội 61 2.2.3. Những quy định của huyện Gia Lâm 65 2.3. Thực trạng về tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở trên địa 66 bàn huyện Gia Lâm và những vấn đề đang đặt ra 2.3.1. Về tổ chức thực hiện hòa giải cơ sở trên địa bàn huyện 66 2.3.2. Quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn 71 2.3.3. Đánh giá chung 78 2.3.3.1. Kết quả 78 2.3.3.2. Tồn tại và nguyên nhân 79 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT 83 LƯỢNG CÔNG TÁC HÒA GIẢI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM 3.1. Phương hướng 84 3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội 84 về hòa giải, xác định đó là một định chế xã hội phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở 3.1.2. Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Tư pháp huyện và 84 4
  5. đội ngũ cán bộ tư pháp xã, thị trấn đối với công tác hòa giải ở cơ sở 3.1.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; 85 tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt động hòa giải 3.1.4. Đẩy mạnh hoạt động phối hợp của chính quyền với các 86 đoàn thể, tổ chức chính trị trong thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở 3.2. Giải pháp 87 3.2.1. Hoàn thiện thể chế pháp lý về hòa giải ở cơ sở 87 3.2.2 Những giải pháp khác 92 KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 PHỤ LỤC 110 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, dưới tác động của kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế, đời sống kinh tế - xã hội của người Việt Nam có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ. Các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột xã hội có chiều hướng gia tăng với những diện mạo mới, đòi hỏi phải được giải quyết bằng những phương thức thích hợp. Hòa giải ở cơ sở là một trong những hình thức góp phần giải quyết hài hòa và có hiệu quả các mâu thuẫn, tranh chấp đó. Hòa giải là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Công tác hòa giải ở cơ sở góp phần giữ ổn định trật tự xã hội, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, tình đoàn kết, tương thân tương ái trong cộng đồng, tập thể, hàn gắn, vun đắp sự hòa thuận, hạnh phúc cho từng gia đình. Nhiều vụ việc mâu thuẫn giữa hàng xóm, láng giềng, giữa những người thân trong gia đình, dòng họ nhờ được kịp thời can thiệp, dàn xếp của những cán bộ hòa giải mà giải tỏa được những bức xúc, giữ được "tình làng, nghĩa xóm" và sự bình yên trong mỗi mái ấm gia đình. Hơn nữa việc thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở sẽ có tác dụng tích cực trong việc xây dựng xã hội bình yên, giàu mạnh, tăng cường tình đoàn kết trong nhân dân và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân. Tại lớp tập huấn cán bộ tư pháp toàn quốc năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Các cô, các chú xét xử đúng là tốt, nhưng không phải xét xử thì càng tốt hơn". Hiểu đúng và đầy đủ lời dạy của Người thì hòa giải có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội và cộng đồng dân cư. Hòa giải có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hướng dẫn các bên có xích mích, va chạm hay tranh chấp trở lại trạng thái quan hệ bình thường, tránh việc nhỏ trở thành việc lớn trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện với tinh thần "chín bỏ làm mười", nhằm hướng tới sự đoàn kết gắn bó bền vững, lâu dài trong mỗi cộng 6
  7. đồng dân cư và toàn xã hội. Vấn đề này đã được Đảng ta quan tâm và đã có chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, được thể hiện rõ trong Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (khóa VII) đó là: "Coi trọng vai trò hòa giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở". Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001, tại Điều 127 quy định: "Ở cơ sở thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật" [46]. Hòa giải ở cơ sở thể hiện tính dân chủ trong giải quyết tranh chấp; thông qua hòa giải ở cơ sở nhân dân thể hiện làm chủ của trong quá trình giải quyết các tranh chấp, xây dựng và củng cố tình làng, nghĩa xóm, góp phần ngăn ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật và những vấn đề bức xúc dễ dẫn đến "điểm nóng". Với phương châm giải quyết "thấu tình, đạt lý", hòa giải cơ sở là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý và tình, giữa đạo đức và pháp luật, là phương thức thể hiện dân chủ và sự thể hiện tư tưởng "lấy dân làm gốc". Quá trình tổ chức thực hiện công tác hòa giải trên phạm vi cả nước, trong đó có địa bàn huyện Gia Lâm (thành phố Hà Nội) cho thấy ở những xã, thị trấn nào làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở những nơi còn coi nhẹ công tác hòa giải, tình hình mâu thuẫn, tranh chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến mất trật tự, trị an xã hội. Thông thường, những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không được quan tâm giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng trở thành phức tạp, thậm chí là nguyên nhân xuất hiện những "điểm nóng" về khiếu kiện. Vai trò của công tác hòa giải ở cơ sở quan trọng như vậy, song thể chế pháp lý, cơ chế, chính sách cho tổ chức, hoạt động hòa giải còn nhiều bất cập. Thực tế tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn cả nước nói chung và trong phạm vi huyện Gia Lâm nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đề trên cả 7
  8. phương diện lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở từ đó đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần thực hiện dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, duy trì, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng quê hương Gia Lâm dân chủ, văn minh, giàu đẹp. Là một cán bộ của huyện Gia Lâm, có nhiều năm gắn bó với công tác hòa giải ở cơ sở, tác giả nhận thấy những giá trị to lớn mà công tác hòa giải đã mang lại. Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài "Hòa giải cơ sở - qua thực tiễn ở huyện Gia Lâm" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở, cụ thể: "Một số tham luận và kinh nghiệm công tác hòa giải ở cơ sở năm 1996" của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh (1997), "Công tác hòa giải ở cơ sở" do Luật gia Nguyễn Đình Hảo chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997), "Vì hạnh phúc của mọi nhà" do Phó tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Oánh và Luật gia Trần Thị Quốc Khánh chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, nội dung mới chỉ đề cập những vấn đề về thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, chưa đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận của công tác hòa giải ở cơ sở. Ngoài ra, còn một số sách hướng dẫn về nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở mới chỉ đề cập đến các quy định pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở với tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chứ không đi vào nghiên cứu thực trạng, 8
  9. phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở như: "Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở (tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn)" - Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, năm 2000 do Tiến sĩ Dương Thanh Mai chủ biên, "Công tác hòa giải ở cơ sở" - Bộ tài liệu tập huấn thống nhất về công tác hòa giải ở cơ sở dành cho cán bộ tư pháp và các hòa giải viên do Bộ Tư pháp xây dựng trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010" do Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Thụy Điển (Sida), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch (DANIDA), Chính phủ Na Uy và Chính phủ Ai Len tài trợ. Một số cuốn sách khác chỉ đề cập đến một khía cạnh con người của công tác hòa giải ở cơ sở như: cuốn "Đánh giá năng lực cán bộ tư pháp cấp tỉnh về quản lý, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở", trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010", Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005, cuốn "Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật" do Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2006,... Một số nhà nghiên cứu về xã hội học cũng có những công trình nghiên cứu liên quan đến hòa giải ở cơ sở như Giáo sư Tương Lai với bài viết "Đồng thuận xã hội" trên Tạp chí Tia sáng, tháng 11 năm 2005; tác giả Nguyễn Thị Lan với bài viết "Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay" đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 6 năm 2006; các bài viết của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Quang Dũng về "Giải quyết xích mích trong nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính", "Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính", "Hòa giải ở nông thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành cho một cuộc nghiên cứu)" đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001, số 1 và số 3 năm 2002. 9
  10. Một số các bài viết trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 7 năm 2006 về công tác hòa giải ở Hải Phòng mới chỉ đề cập đến thực tiễn công tác hòa giải như kết quả, một số tồn tại cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả và chỉ trong phạm vi một địa bàn nhất định. Còn đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, cũng đã có những công trình nghiên cứu, khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp về hòa giải ở cơ sở tại Việt Nam với tư cách là một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng những tranh chấp, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, hoặc cũng có thể coi hòa giải là một khía cạnh của đời sống xã hội dân sự truyền thống của nông thôn Việt Nam. Đó là các công trình nghiên cứu của nhóm tác giả về "Đánh giá xã hội dân sự ở Việt Nam"; Dự án điều tra của Viện Xã hội học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam; hoặc là các công trình nghiên cứu của các chuyên gia Nhật Bản, Hàn Quốc về vấn đề này. Tuy nhiên đến nay chưa có những công trình nghiên cứu nào về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm. Do đó, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và việc áp dụng chúng trên một địa bàn huyện ven đô, từ thực tiễn đó đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở là rất cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: làm rõ vai trò và đặc điểm hòa giải ở cơ sở, trên cơ sở đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở. - Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: + Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở, khái quát thể chế hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam và tìm hiểu những điểm ưu việt của công tác hòa giải của một số nước trong khu vực. 10