Luận văn Hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan về xuất nhập khẩu hàng hoá thương mại
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan về xuất nhập khẩu hàng hoá thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
luan_van_he_thong_hoa_van_ban_phap_luat_hai_quan_ve_xuat_nha.pdf
Nội dung tài liệu: Luận văn Hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan về xuất nhập khẩu hàng hoá thương mại
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2 3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 2 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3 5. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 3 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG HOÁ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP LUẬT HẢI QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ THƯƠNG MẠI................. 4 1.1. Hệ thống hoá pháp luật .......................................................................... 4 1.1.1. Khái niệm hệ thống hoá pháp luật ......................................................... 4 1.1.2. Hình thức thực hiện hệ thống hoá pháp luật .......................................... 5 1.1.3. Chủ thể và trình tự thực hiện hệ thống hoá pháp luật ............................ 8 1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của công tác hệ thống hoá pháp luật ..................... 12 1.2. Pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ................................................................................... 15 1.2.1. Khái niệm chung về pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ........................................................... 15 1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ......................................... 21 1.2.3. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ......................................... 26
- Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT HẢI QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT, NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ THƯƠNG MẠI ......................................................................... 34 2.1. Một số chế định pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ...................................................... 34 2.1.1. Chế định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá ........ 35 2.1.2. Chế định về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan ............. 38 2.1.3. Chế định về trách nhiệm của hải quan trong việc phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới ....................... 44 2.1.4 Chế định về tổ chức thu thuế và các khoản thu khác đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu .............................................................................. 48 2.1.5. Chế định về xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại .................................................................... 54 2.2. Đánh giá về thực trạng văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ...................................................... 61 2.2.1. Đánh giá tổng quan về giá trị, hiệu quả của pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ............... 61 2.2.2. Một số nội dung bất cập cụ thể đang tồn tại trong pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại .................................... 66 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CÔNG TÁC HỆ THỐNG HOÁ VĂN BẢN PHÁP LUẬT HẢI QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA THƯƠNG MẠI ..................... 71 3.1. Sự cần thiết của việc hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá ............................. 71
- 3.1.1. Hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước .................................. 72 3.1.2. Hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân, tổ chức thực hiện xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ....... 75 3.2. Thực trạng công tác hệ thống hoá pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại thời gian qua và định hướng trong thời gian tới ..................................... 77 3.2.1. Thực trạng công tác hệ thống hoá pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại thời gian qua ........... 77 3.2.2. Định hướng công tác hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại trong thời gian tới .................... 88 3.3. Những giải pháp hệ thống hóa văn bản pháp luật hải quan về hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa thương mại ........................... 92 3.3.1. Đối với công tác tập hợp hóa ................................................................ 92 3.3.2. Đối với công tác pháp điển hóa ............................................................ 94 KẾT LUẬN .................................................................................................. 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103
- LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Mặc dù chỉ mới có sự chuyển biến rõ nét từ sau thời kỳ đổi mới, nhất là khi Luật Hải quan năm 2001 được ban hành, nhưng hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ở nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ. Từ thực tiễn này đã kéo theo nhu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để một mặt có thể hỗ trợ Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý xuất, nhập khẩu, mặt khác có thể thiết lập môi trường pháp lý minh bạch, thông thoáng nhằm hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp có thể thực hiện có hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Tuy nhiên, do hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại ở nước ta chỉ mới phát triển trong một thời gian ngắn, thực tiễn lại luôn có những chuyển biến phức tạp nên đòi hỏi Nhà nước phải liên tục ban hành các văn bản pháp luật nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu quản lý về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Chính điều này đã tạo nên một khối lượng văn bản pháp luật đồ sộ, gây khó khăn cho công tác tra cứu và áp dụng pháp luật. Mặt khác, do trình độ lập pháp còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm quản lý về xuất, nhập khẩu chưa nhiều nên không thể tránh khỏi tình trạng cùng lúc tồn tại nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu tính khả thi. Xuất phát từ thực trạng đó, đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp hiệu quả để tiến hành tập hợp, rà soát và đánh giá toàn diện hệ thống pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, nhằm kịp thời khắc phục những hạn chế và hoàn thiện hệ thống pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và cán bộ, công chức ngành hải quan có thể dễ dàng tiếp cận, tra 1
- cứu và áp dụng pháp luật. Và hệ thống hoá pháp luật chính là một biện pháp hiệu quả có thể đáp ứng các yêu cầu đó. Mặc dù vậy, theo nhận thức của bản thân, hiện nay chưa có bất kỳ đề tài nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống hoá pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại được thực hiện, mà chỉ mới dừng lại ở các bài viết, tham luận về công tác hệ thống hoá pháp luật nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng, và với nguyện vọng được nghiên cứu sâu hơn, nhằm góp phần tạo lập cơ sở lý luận cho công tác “Hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan về xuất nhập khẩu hàng hoá thương mại”, tôi xin phép mạo muội chọn đây là đề tài nghiên cứu cho Luận văn này. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài hướng tới các mục đích nghiên cứu chính sau đây: * Tìm hiểu các một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác hệ thống hoá pháp luật; về pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. * Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. * Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác hệ thống hoá pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hải quan. 3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu Luận văn chủ yếu tập trung đi sâu vào phân tích thực trạng của hệ thống văn bản pháp luật hải quan về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại; thực trạng tiến hành công tác hệ thống hoá pháp luật trong lĩnh vực hải quan, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác hệ thống hoá pháp luật về xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. 2
- 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích đánh giá, phương pháp đối chiếu so sánh, dựa trên những tài liệu, thông tin có được từ các công trình nghiên cứu, các tác phẩm của các tác giả và từ những nhận thức, đánh giá của bản thân. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm ba chương chính: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hệ thống hoá pháp luật và Pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Chương 2: Thực trạng văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hệ thống hoá văn bản pháp luật hải quan điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá thương mại. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều song do hạn chế về thời gian và trình độ, nên luận văn chắc chắn còn nhiều hạn chế và không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp quý báu từ quý Thầy, Cô. 3
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG HOÁ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP LUẬT HẢI QUAN ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ THƯƠNG MẠI 1.1. Hệ thống hoá pháp luật 1.1.1. Khái niệm hệ thống hoá pháp luật Trong khoa học pháp lý, hệ thống hoá pháp luật được hiểu là hoạt động hệ thống, sắp xếp, chỉnh lý, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật theo một trật tự nhất định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu và áp dụng pháp luật. Đồng thời thông qua công tác hệ thống hoá pháp luật cũng cho phép các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có được sự nhìn nhận, đánh giá tổng quát về thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành, kịp thời phát hiện những quy định không phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc thiếu tính khả thi của hệ thống pháp luật nhằm tiến tới mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật. Từ khái niệm này đã thể hiện khá rõ nét đặc điểm của công tác hệ thống hoá pháp luật không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc tập hợp, sắp xếp cơ học các văn bản quy phạm pháp luật, mà còn là một hoạt động trí tuệ thông qua việc đối chiếu, so sánh, chỉnh lý, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đây là một công việc vô cùng phức tạp, đặc biệt là ở Việt Nam, với một khối lượng văn bản quy phạm pháp luật đồ sộ; với trình độ lập pháp, lập quy còn nhiều hạn chế dẫn đến thực trạng tồn tại nhiều mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật diễn ra khá phổ biến. Thực trạng này đòi hỏi công tác hệ thống hoá pháp luật phải được thực hiện cẩn trọng và có thể mất rất nhiều thời gian. Kinh nghiệm thực hiện công tác hệ thống hoá pháp luật ở Hoa Kỳ và một số quốc gia Châu Âu cho thấy để hoàn thành một bộ pháp điển quốc gia thông thường phải mất từ vài năm đến vài chục năm. Cá biệt như Hoa Kỳ, 4
- sau hơn 85 năm thực hiện bộ pháp điển quốc gia (US.code), chỉ mới có 26 trong tổng số 50 chủ đề được chính thức hoá 1. Điều này đã phần nào nói lên tính chất phức tạp của công tác pháp điển hoá nói riêng và hệ thống hoá pháp luật nói chung. Ở Việt Nam, thực tiễn đã chứng minh công tác hệ thống hoá pháp luật đã được thực hiện từ rất lâu, chứ không chỉ mới phát sinh trong nền pháp lý hiện đại. Sự ra đời của các bộ luật Hình Thư (triều Lý), Hồng Đức (triều hậu Lê) và Gia Long (Hoàng Việt Luật Lệ, triều Nguyễn) đều được đánh giá là có sự tham chiếu, tiếp thu và chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật trước đó, mà một phần quan trọng là pháp luật của các triều đại phong kiến Trung Hoa 2. Điều này đã thể hiện rất rõ công tác hệ thống hoá pháp luật ở nước ta đã hình thành, phát triển rất sớm và song hành cùng công tác lập pháp từ các triều đại phong kiến cho đến thời điểm hiện tại. Do ảnh hưởng của các yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, và trình độ pháp lý của mỗi thời kỳ, nhất là ý chí của nhà cầm quyền mà công tác hệ thống hoá pháp luật có thể được thực hiện theo những định hướng khác nhau. Tuy nhiên, suy cho cùng thì công tác hệ thống hoá pháp luật, dù được thực hiện dưới hình thức nào, ở bất kỳ thời điểm nào, cũng nhằm mục đích xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh, dẫn dắt các quan hệ xã hội diễn biến theo ý chí của Nhà nước. Đây cũng là một biểu hiện của bản chất giai cấp – một bản chất cố hữu của pháp luật. 1.1.2. Hình thức thực hiện hệ thống hoá pháp luật Ở Việt Nam, công tác hệ thống hoá pháp luật được thực hiện chủ yếu thông qua hai hình thức: tập hợp hoá và pháp điển hoá. Cả hai hình thức đều là những hoạt động phức tạp, tỉ mỉ và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tập hợp hoá: là hoạt động sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật 5
- hoặc các quy phạm pháp luật riêng biệt theo một trật tự nhất định, có thể theo trình tự thời gian ban hành, theo vần chữ cái hoặc theo từng vấn đề, thậm chí theo một trật tự khác tuỳ thuộc vào chủ thể tiến hành tập hợp 3 (ví dụ tập “Hệ thống hoá luật lệ hình sự”, tập “Hệ thống hoá luật lệ dân sự” do Toà án nhân dân Tối cao thực hiện trước đây). Hoạt động này không làm thay đổi nội dung văn bản pháp luật, không bổ sung những quy định mới mà chỉ nhằm loại bỏ các quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực. Do vậy, hình thức tập hợp hoá chưa giải quyết được vấn đề chỉnh sửa và loại bỏ những quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản quy phạm pháp luật cấp trên, cũng như chưa trực tiếp đóng góp vào quá trình chỉnh lý và hoàn thiện pháp luật, mà chỉ mới dừng lại ở việc tạo điều kiện thuận lợi để phục vụ công tác tra cứu và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật. Pháp điển hoá: là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trong đó, không những chỉ tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật đã có theo một trình tự nhất định, loại bỏ các quy phạm pháp luật lỗi thời, mâu thuẫn hoặc chồng chéo, mà còn bổ sung các quy phạm pháp luật mới để thay thế cho các quy phạm pháp luật đã bị loại bỏ, khắc phục những lỗ hổng đã được phát hiện, nhằm nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường hiệu lực pháp lý của chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội 4. Từ khái niệm trên, ta thấy công tác pháp điển hoá được thực hiện qua ba giai đoạn: Giai đoạn 1: sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật hay các quy phạm pháp luật theo một trật tự nhất định tuỳ theo mục đích của chủ thể thực hiện. Giai đoạn 2: rà soát, đối chiếu, so sánh giữa các quy phạm phạm pháp luật nhằm tìm ra sự khác biệt, mẫu thuẫn giữa quy phạm cấp dưới và quy phạm cấp trên; phát hiện những quy định pháp luật không còn phù hợp hoặc 6
- thiếu tính khả thi hoặc những lỗ hổng pháp lý do thiếu sót những quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với một, một số quan hệ xã hội nhất định, nhất là những quan hệ xã hội mới phát sinh. Giai đoạn 3: sửa đổi, bổ sung các thiếu sót đã được phát hiện, nhằm đảm bảo xây dựng một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, hiểu quả và khả thi. Như vậy, pháp điển hoá là hình thức phức tạp hơn rất nhiều so với công tác tập hợp hoá. Nếu tập hợp hoá chỉ đơn thuần là việc sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật một cách có hệ thống, theo một trật tự nhất định thì đặc trưng của pháp điển hoá thể hiện ở việc chỉnh lý, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. Kết quả của công tác pháp điển hoá có thể cho ra đời một văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm hoàn thiện và thay thế cho các quy phạm pháp luật về cùng một lĩnh vực, một vấn đề mà trước đó được quy định rải rác trong nhiều văn bản, ở nhiều cấp độ khác nhau. Chính vì vậy, pháp điển hoá có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Trong khoa học pháp lý, pháp điển hóa được phân chia thành hai hình thức: pháp điển hóa về mặt nội dung và pháp điển hóa về mặt hình thức. Pháp điển hóa về mặt nội dung: (hay còn được gọi theo các cách gọi khác nhau như: pháp điển hóa lập pháp, pháp điển hóa truyền thống, pháp điển hóa có tạo ra quy phạm mới, ) là việc xây dựng, soạn thảo một văn bản pháp luật mới trên cơ sở hệ thống, tập hợp, rà soát, sắp xếp các quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vào văn bản đó với sự sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn. Việc xây dựng các bộ luật của nước ta như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật lao động, đều được thực hiện theo hình thức pháp điển này. Cách thức pháp điển này giống như hoạt động lập pháp thông thường. 7